Đường về nằm trong những mường tượng cuối cùng còn sót lại trong
lòng tôi. Thời gian trôi qua, nắng mưa và những chuyến đời rộn rã không làm tôi
quên đi lời hứa năm nào. Và rồi tôi quyết định quay về một chuyến. Cánh đồng,
bờ đê, những dòng sông uốn khúc chảy dài và từng mùa nước nổi thêu dệt trong
tôi kí ức vui buồn về những ngày lênh đênh phiêu bạt.
Ngồi trên chiếc đò dọc xé sóng chạy băng băng trên dòng, tôi
nhắm chiếc Nikon D5 ghi lại một vài tấm ảnh chân thật nhất về đời sống của
người dân miền Tây trong khoảnh khắc nước lũ tràn về. Gió đồng lồng lộng. Nước
sông dập dềnh. Mắt tôi cay cay…
***
Ghe chúng tôi đi ngang qua cánh đồng. Buổi sáng, trời nơm nớp
gió. Nằm trong ghe, tôi ngửi được mùi nước sông mằn mặn theo gió lùa vào. Dòng
sông phảng phất mùi đất bùn, mùi tràm thơm, mùi cánh đồng tháng bảy ngập úng và
phù sa đôi bờ.
Mỗi khi ngà ngà say, ba tôi lại kể chuyện năm xưa má sinh tôi ra
trên chiếc ghe này, cả thằng Triết cũng thế, nhau rốn của chị em tôi đều được
má thả vào lòng sông như một lời thề. Má bảo:
- Chừng nào tao với ba mày còn ăn chung ở chạ với nhau là chừng
đó nhà mình còn đi ghe.
Nghe má nói, tôi chau mày hỏi lại:
- Lên bờ sống cho đỡ cực, đi ghe mãi sao được, hả má?
Má tôi trầm ngâm một lúc rồi khe khẽ, giọng buồn:
- Thôi con, trên bờ không phải chỗ thuộc về gia đình mình.
Mãi đến năm tôi mười tám tuổi ba mới kể tôi nghe ngày ấy chú
thím tôi kéo đến nhà ông bà nội giành đất. Chú tôi sợ bà nội sẽ cắt mảnh ruộng,
liếp mía sau nhà cho ba má tôi dựng nhà canh tác. Mảnh đất đó phì nhiêu, mùa
nào lúa cũng nặng quằn bông, không biết mía hút phù sa ở đâu mà thân mía to,
lại ngọt, thương lái ưng ý nên ngả giá thật cao, ông tôi “trúng đậm”. Chiều
cuối năm, chú thím tôi bơi xuồng qua sông đứng trước sân mắng ba tôi xối xả.
Trong xóm nhỏ, không biết ai độc miệng châm dầu vào lửa xúi giục chú tôi tạt
qua nhà nội “quậy banh tành”. Chú làm thật. Bà nội giận quá khuỵu xuống, mắt
trắng dã, miệng nội mấp máy không nói nên lời, hàng xóm sợ quá lấy ghe chở nội
ra trạm y tế xã. Ba tôi nhảy vào can ngăn, ngay lập tức chú chộp lấy con dao
làm cỏ dưới sàn chém phập vào đùi ba tôi một nhát ròng ròng máu. Vết sẹo ấy ba
mang theo suốt đời.
Sau trận đó, ba tôi sắm chiếc ghe mù u, má tôi xếp gọn nồi niêu
chén bát với mớ đồ lặt vặt xuống ghe rồi ì ạch chạy mãi. Bến sông xóm cũ, đêm
sương, ba má tôi bắt đầu hành trình phiêu bạt trên dòng. Mảnh đất cũ lòa nhòa
rồi khuất hẳn trong màn đêm hun hút...
Rồi một ngày ba má tôi về ngang qua xóm cũ, chúng tôi quyết định
lên bờ thăm ông bà, bởi lẽ “Con người có tổ có tông”, làm sao mà bỏ luôn cho
đặng. Bà tôi mừng lắm, nước mắt chứa chan. Bữa cơm chiều ấm cúng, lần đầu tiên
trong cuộc đời chị em tôi được ăn cơm trong gian bếp nồng thơm mùi khói lam
chiều. Tôi ngồi cạnh bên bà, thằng Triết tựa đầu vào lưng ông, nói cười rôm rả.
Khi bữa cơm đã tàn, má tôi bưng mớ chén bát ra cầu ao ngồi rửa. Tôi nghe ông nội
nói với ba tôi, gần như van xin:
- Vợ chồng mày dọn lên đây dựng nhà mà sống đi con, đất nhà mình
vẫn còn chỗ cho vợ chồng bây kia mà. Đi ghe cực lắm, tụi nhỏ cũng lớn hết cả
rồi!.
Ba tôi trầm ngâm, vài sợi tóc ngả màu trên đầu ba bay lất phất.
Hình như trong giây phút ấy, chị em tôi, ông bà tôi đều trông đợi cái gật đầu
từ phía ba. Để đời bớt lênh đênh. Nhưng rồi ba từ chối, tôi điếng người, nét
buồn rầu ẩn hiện trên khuôn mặt của bà. Im lặng một lúc, ba tôi thở dài thắc
thỏm:
- Không được đâu, ba má à! Vợ chồng con còn nợ sông nhiều lắm,
không biết chừng nào mới trả hết nợ cho sông.
Chừng nào? Tôi tự hỏi lòng mình như thế. Một năm. Hai năm. Ba
năm. Hay suốt đời suốt kiếp chúng tôi vẫn sống trên chiếc ghe bề ngang bề dọc
chỉ vừa đủ để hai người ngồi tựa lưng vào vách đối mặt lại với nhau.
Chị em tôi nằm với bà nội trọn một đêm, nghe bà kể chuyện cổ
tích, ngâm Vân Tiên. Thằng Triết rúc đầu vào người bà, lim dim một lúc rồi ngủ
khì. Gần sáng, ba bước vào trong buồng gọi chị em tôi thức dậy, tôi với tay lay
thằng Triết, nó ngồi dậy, mặt co rúm vì ngái ngủ. Bà nội ngồi chải tóc, tết tóc
cho tôi. Rồi bà ôm chúng tôi vào lòng. Ba má từ giã ông bà nội để lui ghe cho
kịp con nước lớn. Mắt bà rơm rớm, môi ông run run. Tôi cũng thấy lòng mình tê
tái. Bình minh ló dạng, ông bà bùi ngùi tiễn chúng tôi xuống bến sông. Má tôi
vừa nhổ sào, vừa nói vọng:
- Ba má ở lại khỏe nghen, tụi con đi, vài tháng nữa vợ chồng con
lại đưa con Chang, thằng Triết về đây thăm ba má.
Ba tôi nổ máy, chân vịt xoáy nước đẩy chiếc ghe từ từ rời khỏi
bến quê.
***
Tháng bảy, con nước lớn từ thượng nguồn sông Mekông đổ về đồng
bằng. Những cánh đồng phủ lên mình biển nước mênh mông, bốn bề trơ trọi. Ghe
chúng tôi đi ngang qua vùng Đồng Tháp Mười, nước ngập khiến tôi không phân biệt
được đâu là bãi bờ, đâu là dòng sông, đâu là cánh đồng. Chiều đồng bằng đìu
hiu, tiếng vịt chạy đồng từ chiếc ghe nào đó vọng lại buồn man mác. Tôi ngồi bó
gối trên mui ghe, nhìn sóng nước. Ngoài trời mưa tí tách, hạt to, hạt nhỏ tan
vào mặt nước. Lũ. Cánh đồng vắng người, những ngôi nhà lúp xúp ẩn mình trong
con nước. Hoàng hôn phủ trùm trên cánh đồng lai láng nước. Ba tôi neo ghe chỗ
mô đất cao còn sót lại trong cơn lũ. Chiều im im văng vẳng tiếng cuốc thẽ thọt
vọng về từ đám lau sậy phía xa. Tôi nằm trong ghe chơi oẳn tù tì với thằng
Triết, má tôi lụi cụi sau lái nhóm bếp nấu cơm. Bữa cơm trên cánh đồng nước nổi
thật bình dị, thằng Triết ngồi bẻ bông súng chấm cá linh kho sệt ăn ngon lành.
Đời lênh đênh như gia đình chúng tôi đôi lúc cũng có cái để vui, để gói ghém kí
ức mang theo trên hành trình sắp tới.
- Mưa lũ kiểu này chắc neo ghe cả tháng chứ đi tiếp sao được?
Má nói vậy. Ba tôi ậm ừ bảo:
- Để nhắm vài ngày nữa coi sao.
Tôi cũng thấy lòng buồn. Đằng kia, mấy trái bình bát chín cuống
rụng xuống nước. Đêm nước nổi mênh mang. Tôi chợt nhớ hồi chiều tôi với Triết
lén ba lên gò đất cao cho đỡ buồn, đỡ nhớ. Tôi nói đùa:
- Phải chi mình có cái gì để lại nơi đây, mai mốt có đi ngang
qua cũng nhận ra chỗ này mình từng neo ghe, từng trốn ba lên bờ nhìn nước nổi.
Thằng Triết nghĩ ngợi một lúc, nó reo lên:
- Chị hai chờ em.
Tôi thấy nó nhanh chân bước lên ghe lúi húi tìm vật gì đó, vài
phút sau, Triết trở lại bờ đặt vào lòng bàn tay của tôi cái hạt nho nhỏ màu
đen.
- Hạt gì? - Tôi hỏi.
- Ô môi đó. Lần trước ngồi ăn bên bờ kinh ngon đáo để, em giữ
lại hạt này đợi ngày lên bờ sống em sẽ gieo nó sau vườn, tới mùa ô môi tha hồ
mà ăn.
Ba tôi từng dặn: “Đừng để lại bất cứ vật gì, đừng quyến luyến
bất cứ một ai. Lỡ như ghe đi lại tiếc”. Nhưng rồi chúng tôi quyết định để lại
nơi đây một hạt mầm.
***
Tôi đâu biết bữa cơm chiều nước nổi là bữa cơm sum họp sau cùng
của chúng tôi. Bí mật về hạt giống trên gò đất cao giữa cánh đồng nước nổi cũng
là bí mật sau cùng của tôi với Triết. Đêm ấy, giông to. Nước lũ ồ ạt chảy về đẩy
chiếc ghe tôi đi băng băng, chao đảo. Má tôi hốt hoảng bảo ba bẻ lái để chiếc
ghe không quay ngược chiều nước cuốn. Lái ghe loạng choạng. Hình như chiếc ghe
đã ra khỏi cánh đồng, gió lạnh hơn và tiếng mấy cành điên điển khô không còn
xạc xào mỗi lúc quật vào nhau tan tác. Ngoài xa thổn thức vọng về tiếng ai hô
to: “Lũ về rồi, chạy đi, nhanh lên”. Thằng Triết mếu máo vì sợ, tôi cũng thấy
tim mình run run. Ba trấn an:
- Không sao, đừng sợ, lát nữa nước sẽ rút ngay thôi.
Nhưng nước không rút. Nước cứ liên tục quật mạnh vào thành ghe,
lái ghe, chiếc ghe xoay tít mấy vòng. Tôi nép sát vào người má, tay bám chặt
vào thành ghe. Trong cơn hoảng loạn, tôi thấy mình đang ngụp lặn giữa dòng,
nước sông mằn mặn tràn vào mắt tôi, mũi tôi, nước đánh tơi tả mái tóc dài của
tôi ran rát. Tôi định gọi má, gọi ba, định bảo má giữ thằng Triết, còn ba thì
vớt tôi lên bờ...
Nhưng khi tôi mở miệng ra ngay lập tức nước ùa vào mặn chát. Tôi
vật vã trên dòng đến bao giờ không biết, mãi đến khi tôi giật mình tỉnh dậy thì
nắng đã lên cao, nước đã rút dần, còn tôi thì đang nằm trong căn nhà lá xập xệ.
Bên cạnh tôi là má, má ngồi nhìn tôi mà nước mắt ròng ròng. Câu đầu tiên tôi
hỏi má:
- Ba với thằng Triết đâu rồi, hả má?
Má nhắm nghiềm hai mắt hồi lâu mới nói, rồi má nấc nghẹn:
- Ba con với em Triết bị nước lũ cuốn trôi, mất biệt rồi con ơi!
Tôi nức nở, má ôm tôi. Hơi ấm của má không đủ sức làm nóng con
tim đang lạnh câm, trống rỗng của tôi.
***
Đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ từng đường nét trên khuôn mặt
của ba, của Triết. Mỗi khi má thấy nhớ em Triết và ba tôi đứt ruột, tôi an ủi
má, mà lòng tôi cũng nhói như kim nhọn đâm vào: “Sống chết có số. Con tin ba và
em vẫn còn sống, chờ ngày gặp má con mình”. Tôi cứ nghĩ ngày mai là ngày đoàn
tụ, sum vầy. Ngày mai có nắng...
Tôi học lớp bổ túc văn hóa. Giờ thì tôi đã là phóng viên của một
tòa soạn báo ở Sài Gòn. Nhiều lần tôi về lại miền Tây tác nghiệp, thâm nhập vào
đời sống người dân vùng Đồng Tháp Mười, An Giang, Vĩnh Long... vào mùa nước
nổi. Nơi đây có chút gì khiến tôi chạnh lòng. Đò dọc đi ngang qua mấy chiếc ghe
thương hồ, kẻ buôn bán, người chăn vịt chạy đồng... tôi thoáng thấy mình, gia
đình mình tháng ngày trước cũng từng lênh đênh như thế. Chiều nay, chiếc đò dọc
tôi thuê dừng lại nơi xóm nhỏ giữa cánh đồng. Người lái đò kể lại mấy năm nay,
nước lũ đến ít hơn và cũng bất ngờ hơn lúc trước, một phần do bàn tay con người
tác động vào thiên nhiên. Tôi bước lên bờ, theo lời chỉ dẫn, tôi phải băng qua
con đường nhỏ đặc sệt bùn đất tìm đến căn nhà gỗ nhỏ bên cạnh gốc ô môi già gặp
một người đàn ông, một cậu thanh niên vẫn thường bơi xuồng dọc dòng sông cứu
người trong từng mùa nước lũ. Kia rồi. Tôi thốt lên trong lòng. Cây ô môi cao
lêu nghêu, thân cành vững chãi vươn lên bầu trời. Tôi thoáng nghĩ về sự sống
bất diệt trong mọi hoàn cảnh, khó khăn thử thách lòng người. Không biết hai cha
con người đàn ông độ lượng ấy có đồng ý để tôi chụp ảnh, phỏng vấn và viết bài
hay không. Nhưng chắc chắn rằng họ sẽ mang đến cho tôi những điều bất ngờ mà
trong mơ tôi cũng chưa một lần nghĩ đến. Một cái gì lóe lên trong tôi. Rưng
rưng. Ấm áp…
Hoàng Khánh Duy