Nơi bàn đá trước hiên nhà đối diện, chỉ lẻ loi bóng gia chủ vào
những buổi hoàng hôn, với dáng ngồi bất động, mắt buồn nhìn xa xăm; đôi khi lại
thơ thẩn đi ra đi vô. Chiều chiều, cụ lại đóng bộ chỉnh tề, chờ con trai về,
chở đi đâu đấy...
Tuổi cán đích sáu mươi, ông về nghỉ. Người kế nhiệm vốn là thuộc cấp
của ông, khá trẻ so với trọng trách được giao. Hôm bàn giao, anh lộ rõ lo lắng khi
tiếp nhận nhiều công việc dang dở. Anh hỏi tỉ mỉ những việc giải quyết tiếp
theo; lại muốn biết kinh nghiệm người đi trước; vừa hỏi vừa ghi chép. Cách tiếp
cận cương vị mới không tự tin lắm của người kế nhiệm khiến lòng tự cao trong
ông được dịp vênh váo.
Nhà gần đơn vị nhưng nỗi buồn và sự cô đơn của ông trong những ngày
về hưu như nhân lên. Khi ông còn tại chức, nhiều đồng nghiệp khuyên nên ở gần
đơn vị để dẫu về nghỉ, anh em vẫn bên nhau; ông cho là phải nhưng nay mới thấy
nhầm, nhầm kinh khủng! Lòng xa chỗ ngõ cũng xa, ông nghiệm ra điều đó khi đã
hết quan, với mênh mông cay đắng. Đã bao lần ông lẩn thẩn tự vấn, sao lắm kẻ
đổi lòng dễ như trở bàn tay!? Ngày ông còn ngất ngưởng trên chiếc ghế quyền lực
nhất đơn vị, khối kẻ nhũn như con bún tươi mỗi khi diện kiến hoặc lúc thập thò
trước cửa nhà sếp mà được mời vào uống nước đã sướng tê người, hôm sau có quyền
vênh mặt khoe với đồng nghiệp. Thế nhưng khi ông vừa bàn giao, khối thuộc cấp
đột ngột tụt cảm xúc như bong bóng xì hơi, dửng dưng như người lạ. Gặp nhau,
bọn họ đãi bôi vài câu quấy quá rồi lủi nhanh như lươn, đến cái bắt tay cũng
hời hợt, lời thăm hỏi cũng chiếu lệ như được lập trình sẵn. Thảm hại hơn, có
những kẻ ngày hai lần ngang qua trước khuôn viên tiền tỷ của sếp cũ nhưng chẳng
thèm ngoảnh mặt, liếc ngang một cái; mặt lạnh như khí trơ.
Có điều ông chưa một lần tự vấn, đồng nghiệp đổi thay hay chính ông
không chịu thay đổi; khi chức quyền quá khứ vẫn lởn vởn trong tâm tưởng khiến
ông chưa thể hoàn dân “toàn tập” để bao dung gần gũi với mọi người. Và nữa, sự
méo mó nhân tình ông đang hứng chịu đâu phải xuất phát từ một phía.
Vẫn giữ thói quen được người khác đến thăm, ông chẳng qua lại với
láng giềng, cả khi đã có ngày rộng tháng dài. Đáp lại, ít người lai đáo nhà
ông, khiến ngôi biệt thự xanh từ màu sơn đến cây lá bỗng trơ trọi, bơ vơ. Lắm
lúc chủ nhân của nó đứng sau vòm lá trong vườn nhìn những đồng nghiệp dửng dưng
đi qua mà lòng man mác; người quen vẫn gần đấy nhưng xa đấy.
Ông quyết làm cuộc cách mạng về chỗ ở, sau bao trăn trở; vợ con xúm
vào ngăn nhưng không được. Đó là mảnh đất ngoại ô, lúc đầu ông định “ôm” để chờ
thời, được giá thì đổi chủ. Nay muốn tránh dư chấn từ quá khứ vọng về đang khấy
động sự bình yên trong lòng, ông chọn chốn xa cách ấy. Sau gần năm bận rộn, gia
đình ông có nhà mới.
* * *
Mỗi sáng ngồi dưới mái vòm trên tầng thượng, vừa nhâm nhi cà phê vừa
ngó quanh, ông thu nhận được bao điều. Cái nghèo nơi đây hiện hữu trong dáng
tất bật của bà nhặt ve chai hay em bé đánh giày; của ông đạp xích-lô hay chị
bán đồ ăn vặt với tiếng rao uể oải hằng đêm. Đèn đường tù mù bên những lối đi
lỗ chỗ và những mái nhà lụp xụp như càng tô đậm sự nghèo khó chốn này; ngôi nhà
mới xây hoành tráng của ông vì thế càng cô đơn sừng sững. Láng giềng ngần ngại
khi đứng trước cánh cổng uy nghi và ông cũng ít khi bước ra khỏi nhà để gần hơn
với xung quanh. Chợt nhớ lời người xưa “bần cùng sinh đạo tặc”, tinh thần cảnh
giác trong ông trỗi dậy; liền đó, cửa đóng then cài.
Cũng nhìn từ trên cao, ông hay để ý hai cụ già thường ngồi bên nhau
nơi bộ bàn đá trước hiên nhà đối diện. Người chủ nhà trẻ hơn hay bỗ bã gọi
người kia là “cụ”; đáp lại, khách kêu “chú” thân tình. Nhìn bộ đồ bộ đội màu cỏ
úa đã cũ và loáng thoáng nghe chuyện giữa hai người, ông chắc họ từng là lính.
Khách thường đến vào cuối ngày, dựng chiếc xe đạp có buộc bó cỏ phía sau vào
tường rào, vừa ngồi xuống ghế đã gọi với vào trong: “Đâu rồi?”. Giọng người kia
đáp lại như reo “đây rồi, đây rồi” và vội vã bê nước ra. Họ ngồi bên nhau cho
đến nhá nhem tối, khi kể chuyện xưa, lúc bàn thế sự; hai người có vẻ hợp ý
nhưng lắm khi cũng tranh luận tưng bừng.
Một hôm, chủ nhà nói như ra lệnh: “Cụ dẹp bò bê, thỏ thiếc đi!” Đáp
lại là vẻ ngơ ngác cùng đôi mắt căng tròn của khách. Gia chủ lắc đầu, tiếp: “Cụ
là tướng mà khắc khổ hơn cả thảo dân thứ thiệt, suốt ngày cứ lọ mọ cỏ rác với
bò, thỏ; không sợ người ta dị nghị sao!?” Khách nhìn sững, người hơi ngả về
phía sau rồi bất ngờ nhỏm dậy, to tiếng: “Chú nói hay nhỉ, tôi gốc nông dân,
hết cầm súng thì quay về với việc mình thích là nuôi trồng. Làm gì phải sợ
ai?!” Chủ nhà có vẻ đuối lý nên nhìn lảng ra sân rồi giảng hòa bằng tiếng cười
hà hà, lại đặt tay lên vai khách như thể vỗ về.
Hóng hớt từ xa nhưng chuyện của hai người càng lúc càng thu hút ông.
Chiều chiều ông lại lên tầng thượng tưới rau, nghe chuyện họ vọng sang. Được
cái, hai cụ có vẻ nặng tai nên nói hơi to, chắc tưởng ai cũng có vấn đề về
thính lực như mình. Đã thế, người đứng xa càng dễ dàng “bắt sóng”. Có một
chuyện ngụ ngôn chủ nhà kể với khách khiến ông cũng giật mình.
Chuyện rằng, có một con chuột rất cao ngạo khi được tự do trú ngụ
kiếm ăn trên bàn thờ Phật; chẳng những nó không bị đánh đuổi mà còn được tung
tăng thỏa thích. Chuột càng vênh váo khi thấy mỗi ngày người người quỳ lạy,
thành tâm khấn vái trước chốn thiêng nó đang chễm chệ. Khi một con mèo phóng
tới, nhe răng; chuột quắc mắt, nạt lớn: “Mày đừng láo, đến con người cũng phải
phủ phục dưới chân ta! Ngươi lạy đi!” Mèo cười phá lên rồi dằn giọng:“Đứa u mê
đần thối kia nghe đây, mọi người lạy ngươi chỉ vì cái vị thế ngươi đang đứng mà
thôi, hiểu chưa? Giờ trả giá cho kẻ hoang tưởng đã tới!” Nói rồi mèo lao đến xé
xác con mồi.
Nghe xong, khách cười mỉm, buông lời nhỏ nhẹ: “Hay!” Chuyện cũng làm
người nghe ké như ông liên tưởng suy tư và kéo dài khoảng lặng sau đó. Đã có
lần ông định bước qua nhà bên, bắt chuyện với hai người quen mà lạ ấy nhưng cứ
ngập ngừng.
Ông ngạc nhiên khi không thấy người khách già đến nữa, một ngày, hai
ngày rồi liền nhiều ngày sau đó. Nơi bàn đá trước hiên nhà đối diện, chỉ lẻ loi
bóng gia chủ vào những buổi hoàng hôn, với dáng ngồi bất động, mắt buồn nhìn xa
xăm; đôi khi lại thơ thẩn đi ra đi vô. Chiều chiều, cụ lại đóng bộ chỉnh tề,
chờ con trai về, chở đi đâu đấy.
Không đừng được, ông bước qua nhà đối diện, lại bên chủ nhà đang
ngồi một mình như nhiều buổi chiều trước đó. Thấy khách có vẻ ngần ngại, gia
chủ vồn vã mời chào. Xởi lởi, bao đồng một lúc rồi ông hỏi về người thường
thấy. “Cụ mất rồi!” - Lời khô khốc ấy khiến ông hẩng hụt, ngơ ngác. Chủ nhà vừa
rót nước vừa nói tiếp: “Cụ nằm ngủ rồi ngủ luôn chứ chẳng đau ốm gì”. Mặc cốc
trà ngát hương như mời gọi, cả hai ngồi lặng, đưa mắt ra đường, bâng quơ. Lâu
thật lâu, ông đột ngột lên tiếng: “Chắc cụ là người trong gia đình bác?” Đáp
lại là giọng trầm buồn: “Thủ trưởng cũ của tôi đấy. Khi cụ là Phó Tư lệnh quân
khu, tôi là lính cần vụ cho cụ.” Đôi mắt già nua chớp chớp; tiếng thở dài não
ruột khiến nỗi buồn lây sang ông. Thấy con trai đứng bên chiếc xe máy trước
cổng nhìn vào, có ý chờ, người cha nói với ra: “Ngày mai là lễ chung thất của
cụ, con nhớ mua bánh trái thắp hương. Mai, ba qua sớm.”
Họ ngồi với nhau đến khi phố lên đèn, lòng càng cởi mở, chuyện càng
sâu đậm. Người lính già bùi ngùi kể về thủ trưởng cũ, chốc chốc giọng nghẹn
lại, mắt rớm lệ. Chuyện vụn như những nhát cắt từ một thân cây đã cho ông chắp
nối, hình dung về người chưa kịp biết tên. Gia chủ kể rằng, ngày cụ được phong
tướng, người thân không dám chúc mừng vì thấy cụ buồn lặng lẽ, suốt đêm cứ đi
ra đi vô hút thuốc. Nghe lính gặng hỏi, cụ thổ lộ rằng, trong giờ phút đáng ra
rất vui thì cụ lại buồn khi nhớ bao đồng đội đã ngã xuống trước ngày hòa bình.
Lúc được quân khu đề nghị phong anh hùng, cụ kiên quyết từ chối vì cho rằng có
nhiều đồng đội còn xứng đáng hơn; thế là thay vì nói về thành tích của mình, cụ
kể chiến công của những đồng đội đã hy sinh. Vì thế, cho đến khi cụ mất, hồ sơ
đề nghị phong anh hùng cũng chưa thể hoàn thành.
Người kể lan man, nhớ đâu nói đấy, chốc chốc lại “à quên”, “còn
chuyện này nữa”. Nhiều chuyện lắm, chẳng hạn như, khi đi kiểm tra công trình
phòng thủ trên đảo, được ngư dân cho ít cá khô, cụ bảo chia thành mấy phần bằng
nhau, cho mình và cho những người phục vụ. Đó là những tháng năm đói nghèo xơ
xác sau chiến tranh, có được chút “tươi” quí lắm! Lúc lên công tác Tây Nguyên,
tỉnh đội biếu mấy kí cà phê “của nhà làm được”, cụ cũng chia đều cho những
người lính gần gũi… Người kể mếu máo, giọng đẫm nước khi nhắc lại kỷ niệm với
người đã khuất: “Cũng nhờ cụ trợ giúp mà các con tôi mới có điều kiện học xong
đại học.” Người lính già cúi xuống, đưa tay lên ngực, cố nén cảm xúc dâng trào;
lặng một lúc rồi kết thúc chuyện bằng giọng bi thương, nuối tiếc: “Thủ trưởng
như thế, lính nào không thương, phải không anh!?”
Ra về, ông mênh man nghĩ, ở nơi xa thẳm kia, chắc vị tướng ấy sẽ mát
lòng khi biết mình vẫn tươi nguyên trong tâm trí người ở lại. Chợt nhớ bao ánh
mắt ghẻ lạnh của đồng nghiệp cũ khi gặp lại, ông thấy tràn đầy xót xa, tủi
hổ./.
Nguyễn Trọng Hoạt
Minh hoạ. Tiến Hành