Mờ sáng mọi người đều tập trung ra đồng, tay cuốc tay cày. Giọt
mồ hôi người nông dân rơi trên từng thửa ruộng làm nên bông lúa vàng trĩu hạt
...
Như thường lệ ông Sắc nhìn mặt trời đã dần xuống núi liền dọn bộ
bàn trà dưới gốc đa đón người làng đi làm đồng về. Ngồi ở đây ông có thể đưa
mắt nhìn bao quát làng quê với những con đường bê tông trải dài, hai bên lề hoa
đua nhau nở. Cánh đồng làng đang chuẩn bị bước vào vụ mới, tiếng máy cày bừa
rền vang khắp nơi. Trà vừa pha xong thì mấy cậu thanh niên kéo đến, trên tay
còn ôm đống cờ phướn đủ các sắc màu. “Ông cho chúng cháu xin cốc chè nóng ạ”.
Ông nhìn về phía chiếc cổng làng đang dựng dở dang quay sang hỏi:
- Chừng nào mới xong vậy các cháu?
- Cổng làng thì chắc ngày mai là xong ông ạ. Nhưng chúng cháu
còn phải đi chăng cờ vài điểm nữa để chào mừng khu văn hóa. Có cờ hoa rực rỡ bà
con mình cũng phấn khởi hơn.
- Đúng thế. Đúng thế. Ở cái tuổi gần đất xa trời như ông mà nhìn
quê hương đổi mới còn thấy phấn khởi nữa là. Hồi ông còn ở tuổi các cháu làng
quê mình còn xơ xác lắm. Cuộc sống thời bao cấp thiếu thốn đủ đường. Lúc ấy có
nằm mơ cũng không tưởng tượng được có ngày hôm nay. Tất cả cũng là nhờ vào
phong trào xây dựng nông thôn mới đấy các cháu à.
Đôi mắt mờ đục của ông nhìn vào xa xăm trời đất. Hình ảnh ngôi
làng xưa hiện về trong ký ức với hàng cau vươn lên đỉnh trời, xao xác tiếng gà
quê bên những mái nhà lợp rạ. Mờ sáng mọi người đều tập trung ra đồng, tay cuốc
tay cày. Giọt mồ hôi người nông dân rơi trên từng thửa ruộng làm nên bông lúa
vàng trĩu hạt. Không có máy móc hỗ trợ, việc cấy hái trồng trọt chủ yếu dựa vào
sức người. Cây lúa còng lưng cắm xuống, gàu sòng tát nước hất lên. Lúa gặt về
dùng sức đập từng gồi. Thóc muốn thành hạt gạo trắng trong thì phải qua sức
người nhiều lần xay giã. Cái thời tem phiếu chắc hẳn còn ám ảnh nhiều người ở
thế hệ của ông. Toàn bộ nhu yếu phẩm đều được Nhà nước phân phối thông qua chế
độ tem phiếu. Nhưng định mức lại chỉ đủ cung cấp cho một phần rất nhỏ nhu cầu
sinh tồn của con người. Quần áo không đủ mặc, cơm không đủ ăn, cái đói dai dẳng
tồn tại từ năm này qua năm khác. Đến ngay cả các cháu nhỏ còn phải bú nước
đường thay sữa. Ở cái thời mà tất cả mọi hình thức kinh doanh đều do Nhà nước
nắm giữ thì khối người có tiền cũng vẫn phải đói khát bởi đâu ai dám bán mà
mua. Ngay cả cái áo lót may ô của đàn ông cũng được phân phát theo số lượng.
Thế mới có câu lảy Kiều cười ra nước mắt: “Bắt ở trần phải ở trần/Cho may-ô mới
được phần may-ô”. Thời bao cấp kết thúc, làng quê vẫn chìm trong những mùa đói
kéo dài. Hết hạn hán đến lũ lụt, đồng ruộng xác xơ. Ông Sắc chỉ vào cậu thanh
niên tên Hinh, gợi lại chuyện năm xưa:
- Ông còn nhớ hồi ấy mẹ thằng cu Hinh chửa vượt mặt, đói quá
chẳng có gì ăn đành mò đi mót khoai. Thế là chuyển dạ đẻ thằng Hinh ngoài đồng.
Đẻ hôm trước, hôm sau đã thấy bế con đi vác rá khắp làng vay gạo. Nhưng chẳng
ai có gạo mà cho vay. Nghĩ thương tình ông đào cho ít sắn sượng về nấu cháo ăn
qua ngày. Thằng Hinh khát sữa khóc ngằn ngặt suốt đêm. Tiếng khóc vang khắp xóm
nghe xót xa biết chừng nào.
Ông thở dài bảo:
- Nghĩ đến cái đói những năm ấy mà sợ. Nhà nào cũng cơm độn sắn.
Phần sắn nhiều hơn phần cơm. Những nhà khổ hơn ăn rau dại qua ngày. Giờ kể lại
nhiều người không tưởng tượng ra cái đói khổ của những năm ấy.
- Cháu vẫn nhớ ngày nhỏ thường lẽo đẽo theo anh đi hái rau dại
ngoài ruộng cạn. Bố cháu thì nhảy tàu đi mót sắn tận Yên Bái, Lào Cai. Sắn mọc
ở rặng rào hoặc mọc hoang trong rừng sâu. Củ to như bắp chân, sượng câm sượng
ngầm ông ạ. Bố cháu nhảy tàu đứng chen chúc ở cửa ra vào, bị ném gãy một cái
răng, sau này cả hàm cứ gãy theo dần, bao năm nay phải dùng răng giả. Nhưng
thôi, chúng cháu phải đi treo cờ đây ông ạ. Nhắc chuyện năm xưa thì dài lắm, để
lúc nào rảnh chúng cháu lại xin hầu chuyện ông.
Ông Sắc mỉm cười nhìn theo những bóng áo xanh đi về phía đầu
làng. Ông đã hơn tám mươi tuổi, răng rụng hết, tay chân có hôm đau nhức tê bì.
Nhưng ngày nào ông cũng ra gốc đa làng mở quán nước chè vào lúc trưa, chiều. Dù
con cháu muốn giữ ông ở nhà chơi với mấy đứa chắt nội, xua đàn gà, trông ao cá,
quanh quẩn với cỏ cây vườn tược. Nhưng đám chắt cũng đi học suốt, ở nhà vào ra
buồn bực tay chân. Chi bằng mở quán nước chè, gặp gỡ người làng trò chuyện cho
khuây khỏa tuổi già. Cả đời ông gắn liền với làng quê. Lúc bé, ông được đẻ rơi
ngoài cánh đồng làng, tiếng khóc còn thơm mùi rơm rạ. Lớn lên ông đi theo tiếng
gọi thiêng liêng của Tổ quốc, vào sinh ra tử ở chiến trường.
Sau chiến tranh
ông về làm cán bộ xã, dốc sức mình xây dựng quê hương. Cho tận lúc về già ông
vẫn chưa khi nào thôi đau đáu về những phận người lam lũ nơi đây. Niềm vui của
ông là được nhìn thấy làng quê từng ngày đổi mới. Những mái nhà cũ nát năm xưa
đã được thay bằng nhà ngói đỏ, mái bằng. Trường học khang trang mọc lên đón các
cháu tới trường. Thôn nào cũng có nhà văn hóa để bà con họp hành sản xuất, sinh
hoạt đoàn thể. Nhờ chương trình xây dựng nông thôn mới mà những con đường đất
nhấp nhô đều đã được bê tông hóa vào tận cổng từng nhà. Không còn cảnh trời mưa
đường lầy lội trơn trượt như xưa nữa. Đường nước sạch được kéo đến tận nhà góp
phần cải thiện môi trường, bảo vệ sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân.
Hệ thống kênh mương tưới tiêu được xây dựng kiên cố hóa đã góp phần
cho nông nghiệp ngày càng phát triển. Không còn lo lũ lụt, hạn hán mất trắng
những vụ mùa. Nhờ thực hiện chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế mà nhiều gia
đình trong xã đã nâng cao thu nhập, giảm nghèo, vươn lên khá giàu. Khi đời sống
vật chất đi lên thì đời sống tinh thần cũng được nâng cao. Thôn xóm nào cũng xây
dựng nếp sống văn minh, giữ gìn làng xã sạch đẹp. Sự đổi thay hiện hữu trong
mỗi nếp nhà. Cuộc đời ông khốn khó, nhưng các con được lớn lên trong giai đoạn
đổi thay. Rồi cháu chắt của ông lần lượt ra đời được nuôi dưỡng trong tình yêu
thương đủ đầy của gia đình và xã hội. Đối với một người lính từng vào sinh ra
tử nơi chiến trường thì không có gì hạnh phúc bằng thấy quê hương mình ngày
càng ấm no hạnh phúc.
Trời nhá nhem tối, vài chiếc máy cày bừa bắt đầu bò lên bờ bỏ
lại phía sau những thửa ruộng xâm xấp nước chỉ còn chờ gieo mạ. Nhiều năm nay
trên cánh đồng làng đã không còn cảnh con trâu đi trước cái cày theo sau. Nhờ
máy móc mà sức lao động của người nông dân được giải phóng, năng suất được nâng
cao. Cũng vì thế mà đồng đất quê hương được sống lại sau nhiều năm bị bỏ bê, cỏ
mọc um tùm. Bởi từng có khoảng thời gian đất ruộng bị bỏ không, người nông dân
kéo nhau đi nơi khác kiếm kế sinh nhai. Thanh niên thì xin vào làm công nhân
trong doanh nghiệp. Đàn ông trung tuổi thì đi theo các công trình xây dựng làm
phụ hồ, thợ xây. Đàn bà xuống thành phố xin làm giúp việc trong những gia đình
giàu có. Đồng quê bị quay lưng ruồng rẫy cũng chỉ vì làm nông cực khổ quá mà
mùa què mùa cụt, năng suất không được là bao. Những năm tháng ấy dưới gốc đa
làng buồn lắm. Quán nước vắng người qua lại, nhìn phía nào cũng thấy hoang vu.
Không có mùa màng chim chóc cũng bỏ đi. Đến tiếng gió luồn qua đồng không mông
quạnh cũng rít lên tiếng của hiu quạnh, cô đơn. Ông thường ngồi nhìn ra phía
đầu làng mong ngóng những người đi xa trở về thăm quê. Xót xa thấy người làng
tha thiết với phố xá lạ xa, ngày càng nguội lạnh dần tình yêu với lúa ngô, đồng
bãi. Ngày càng nhiều người tìm cách thoát nghèo bằng con đường đi xuất khẩu lao
động. Chẳng mấy ai còn đoái hoài đến những thửa ruộng hoang. Phải mất vài năm
nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thì cánh đồng mới được hồi sinh. Mạ lại
xanh non, lúa lại chín vàng. Chim chóc đợi mùa màng lại kéo về lảnh lót. Quán
nước của ông nhiều người nán lại ngồi. Những câu chuyện về làng quê được thay nhau
kể tiếp.
Ông Sắc đóng cửa quán nước lúc trời chiều nhá nhem. Ông về nhà,
lần theo tiếng máy cày, tiếng nghé ọ, tiếng ai đó í ới gọi nhau. Đèn đường đã
bật lên, công nhân tan ca ùa về ngõ nhỏ. Vài khoảng đất trống được tận dụng làm
sân bóng đá, bóng chuyền chiều nào cũng đông người tham gia. Có khi mồ hôi làm
đồng còn chưa ráo, chân còn lấm lem bùn nhưng người nông dân đã vội say sưa với
trái bóng. Niềm vui lúc cuối ngày giúp họ quên đi bao mệt mỏi, nhọc nhằn. Hôm
nào ông Sắc cũng nán lại sân bóng một lúc để nhìn những đôi vai vạm vỡ, để nghe
những tiếng cười thân thuộc. Ngay cả khi bóng tối đã bao trùm làng quê thì ông
vẫn nhìn thấy thứ ánh sáng hiện hữu trong từng mái nhà, từng ngõ nhỏ. Ông đã
bước sang con dốc bên kia của cuộc đời, sẽ không còn nhiều thời gian để ngắm
nhìn làng quê đang từng ngày đổi mới. Nhưng ông luôn tin rằng cuộc sống sẽ ngày
càng tốt hơn, quê hương ông sẽ ngày càng giàu đẹp…
Vũ Thị Huyền Trang
BHD