Tần xem đồng hồ rồi vội bước ra cửa, gió Nam bắt đầu thổi mạnh, anh
kéo cao cổ áo khoác, bước nhanh chân hơn. Tần sợ tụi nhỏ đến mà chưa thấy anh,
sẽ bỏ về. Sĩ số lớp có mười chín em mà có mặt chừng mười ba, mười bốn là cao.
Vào mùa cá, các em ở nhà phụ giúp gia đình, lớp học chỉ còn vài em.
Tần thường đi sớm hơn 1 tiếng để đứng đón học trò ở ngã ba. Vì đường
đi trên hòn có ba ngã: ngã chướng, ngã Nam và ngã đèn hải đăng, giáp nhau ở gần
đỉnh hòn, nên Tần đi sớm để đón các em học sinh ở đó, rồi mới dẫn các em vô lớp
học. Tan lớp, phụ huynh cũng đứng chờ những em còn nhỏ tuổi ở ngã ba, nên thành
danh là "Ngã ba đón". Hòn Chuối không lớn lắm, các em lớn chạy vài ba
hơi là giáp hết, nhưng sợ bất trắc với các em nhỏ nên Tần luôn lo lắng và nhắc
phụ huynh đưa đón. Tần cảm thấy bên cạnh dạy chữ còn có trách nhiệm về an toàn
cho học trò. Học sinh nào vắng lâu thì Tần hỏi thăm, em nào chớm có ý nghĩ bỏ
học là Tần động viên ráng học để biết đọc biết viết, làm các phép tính cộng,
trừ, nhân, chia... để sau này ra đời bớt thiệt thòi.
Ngày Tần ra đến đồn biên phòng trên hòn Chuối này, dân ở đây chưa
đến ba mươi hộ, số trẻ em khoảng một trăm, nhưng phần nhiều các em chưa biết
chữ. Ðơn vị thấy vậy, mở lớp học tình thương trên hòn, Tần được phân công phụ
trách dạy học. Con nít ở đây biết đi là biết bơi lội, lên năm, sáu tuổi là biết
phụ giúp cha mẹ móc mồi câu, gỡ cá lưới. Rồi lớn lên quanh năm suốt tháng với
biển cả, cá tôm, nắng gió. Nên nhiều lúc người dân không nghĩ đến việc trẻ em
cần phải học để biết chữ.
Ngày mở lớp, có chừng hơn mười em, đứa nào màu da cũng đen nhẻm nắng
gió, lớn rồi mà chưa từng đi học. Chừng này tuổi, nếu ở đất liền, các em học
gần hết tiểu học rồi. Tần đắn đo suy nghĩ để thiết kế bài học theo thời gian
của học trò và những gì các em cần trước mắt. Vì vậy Tần tập trung dạy đánh vần
rồi sau đó ráp vần, tập đồ, tập viết.
Chuyện dạy học với thầy giáo tay ngang như Tần đã không dễ dàng, học
trò thì cũng có em gặp những vấn đề riêng. Có em đã lớn và đến thời kỳ vỡ
giọng, lại phải học chung với các em nhỏ, nên nỗ lực gấp ba: vừa phụ giúp gia
đình, lại ráng học đọc học viết và phải vượt qua mặc cảm. Những lúc như vậy Tần
thấy thương các em vô cùng. Nhưng chuyện vui và kỷ niệm cũng nhiều không kể
xiết.
Tần vẫn nhớ hoài một buổi sáng có chàng trai trẻ tên Nam, cao ngang
với anh, toát lên vẻ khỏe khoắn của người đi biển, xin vô lớp học. Buổi học đầu
tiên, Nam ít nói, ít giao tiếp, chỉ chăm chú nghe Tần hướng dẫn nhận mặt chữ và
ráp những vần đơn giản. Nam cố gắng đọc theo từng chữ cái mà cứ ngượng ngập.
Vài hôm sau, giờ tan học Nam tìm gặp Tần, ấp úng:
- Thưa thầy, em có chuyện này kể ra, thầy đừng cười em.
- Thầy hứa.
Vậy là Nam lấy hết can đảm tuôn một hồi dài:
- Xóm em có nhỏ, bằng tuổi em mà biết chữ. Mới đây nhỏ đưa cho em
một lá thơ, ra điều kiện em đọc được và trả lời đúng câu hỏi trong đó thì nhỏ
sẽ làm người thương của em. Em muốn nhờ người khác đọc giúp, nhưng sợ bị chọc
quê, nên đến nhờ thầy dạy cho em biết chữ để đọc lá thơ đó, rồi trả lời cho nhỏ
biết ý em thôi. Chớ cha em không cho yêu đương sớm, nói còn trẻ phải lo mần ăn,
phải giỏi nghề biển, làm cái nhà trước...
Tần vừa dở khóc dở cười với lý do quyết tâm đi học của Nam, vừa
thương cậu học trò thiệt thòi, lớn vậy rồi mà chưa biết đọc biết viết, nên cân
nhắc trả lời:
- Thầy sẽ dạy để em trong một tháng đọc được lá thơ đó và biên thơ
trả lời. Nhưng em phải cố gắng dữ lắm à...
Mắt Nam sáng rỡ:
- Em cám ơn thầy. Vậy em gởi lá thơ của nhỏ đó chỗ thầy tới khi nào
em đọc được sẽ nhận lại. Chớ giờ mà đem về nhà, lỡ mà cha em thấy, la rầy
liền...
Thế là Tần sắp thêm giờ dạy cho Nam, bên cạnh những buổi học trên
lớp. Nhìn Nam nỗ lực vượt qua từng chướng ngại do bắt đầu học quá trễ, Tần luôn
động viên Nam:
- Em thông minh lắm, sẽ sớm đọc và viết được!
Qua tuần lễ thứ hai, Nam đã làm quen với các vần và bắt đầu tập đồ,
tập viết. Bàn tay Nam lóng ngóng, run rẩy qua từng nét chữ. Nam thấy chuyện bơi
lội, lái tàu, kéo lưới, khuân vác... sao mà nó dễ; cầm cây viết sao mà khó quá
trời. Ðôi lúc Tần bật cười, chỉnh lại dáng ngồi viết của Nam khi thấy cậu học
trò méo cái miệng, cong cái giò đề lái ngòi viết theo nét chữ. Nhiều lần Tần
xem tập của Nam, nhận ra một điều: những nét chữ đầu tiên đến với Nam không dễ
dàng và bộc lộ nôn nóng mau biết đọc biết viết. Ðọc được tâm trạng của cậu học
trò lỡ mùa ở hòn này, Tần càng tận tụy với công việc của mình.
Cuối cùng Nam cũng vượt qua được thời gian khó khăn. Một buổi tan
trường. Tần cầm lá thơ tháng trước Nam nhờ anh cất giùm, đưa cho cậu. Nam mở
ra, trên tờ giấy màu hồng chỉ có một câu, miệng Nam uốn éo đánh vần: "Anh -
có - yêu - em - không?". Ðọc xong Nam la trời: "Nhỏ này gan quá thầy
ơi!".
Tần cười:
- Giờ em đã biết câu hỏi rồi. Phần trả lời thì tự em biên thơ cho
nhỏ, chuyện này thầy không giúp được...
* O
*
Sau này Nam biết đọc biết viết rồi, biết thêm nhiều công năng của
điện thoại di động, nên thường nhắn tin cho Tần kể những chuyện vui, nhất là
khi cá tôm đầy ắp khoang thuyền. Lúc không ra khơi, Nam lại đến giúp Tần và các
anh em trong đơn vị mỗi khi tổ chức khám trị bịnh cho bà con, gánh nước ngọt,
giúp dân chằng giữ nhà cửa, thuyền bè và di dời đến nơi an toàn mỗi khi có gió
bão... Gia đình Nam cũng như nhiều gia đình ngư dân khác trên hòn Chuối này,
sống đoàn kết như một nhà, đau ốm bịnh hoạn lo cho nhau, đùm bọc trong nghề
đánh bắt và những lúc giữa muôn trùng biển khơi. Hộ nào thêm nhân khẩu, hộ nào
mới đến là cả hòn đều biết. Dân cư, bộ đội biên phòng trú đóng đều biết nhau
tường tận.
Cuộc sống ở hòn Chuối tuy vẫn còn thiếu thốn, người dân vẫn dùng máy
kéo mô tưa thắp sáng, xem truyền hình và nghe nhạc trên sóng radio là cách giải
trí phổ biến, đổi lại môi trường sống trong lành, tình đoàn kết xóm làng, gắn
bó quân dân không lay chuyển...
Nhật Hồng
Can Tho