Một giọt máu đào hơn ao nước lã...
Nhận quyết định về hưu trong tay, bà Hồng ngồi buồn xo bên bàn làm
việc. Thấy Việt đi qua bà liền vẫy tay gọi Việt lại trò chuyện.
- Cô phải nhận quyết định về hưu chính thức rồi Việt ơi!
- Nhanh thế cô?
Việt tính bắt tay bà Hồng chúc mừng nhưng bà không chìa tay bắt mà
phẩy tay bảo:
- Ôi mừng rỡ nỗi gì. Tôi sợ nhất cái ngày này, không ngờ nó đến sớm
hơn tôi tưởng. Mấy thằng Ami[1] nó làm căng quá trời.
- Cô làm bao năm rồi?
- Ngót nghét 30 năm rồi.
- Vậy cô về nghỉ ngơi có khỏe hơn không, tội gì làm thêm vài năm nữa
cho nhọc?
Bà Hồng lại phẩy tay:
- Chắc gì khỏe hơn đi làm Việt ơi! Tôi nghĩ chết sớm thì có.
Việt an ủi:
- Đâu tới mức độ nghiêm trọng như cô nghĩ. Nhiều người mong được như
cô mà không được. Cô còn có người thân bên này, lo gì buồn?
- Vậy sao? - bà Hồng thở dài – nhưng tôi lại khác! Với tôi về hưu
sớm ngày nào là tôi tổn thọ ngày đó.
Việt cười bảo:
- Cô cả lo quá thôi. Chứ về hưu cũng có cái thú của nó chứ? Ít nhất
cô cũng khỏi thức khuya dậy sớm, thoát cảnh stress trong công việc. Về hưu cô
có thời gian đi đây đó thăm viếng, khuây khỏa tinh thần không tốt hơn sao?
- Đành là thế nhưng mỗi người một cảnh. Giá tôi được một phần như
người ta đã là một nhẽ - bà Hồng thở dài não nuột - Tiếng là có người thân bên
này nhưng cũng như không Việt ơi! Lúc tụi nó còn nhỏ một tay cô chăm sóc, rồi
lớn lên lại dựng vợ, gả chồng cho từng đứa. Nhưng khi sự nghiệp của tụi nó vững
vàng rồi thì chẳng đứa nào buồn quan tâm tới cô nữa. Nhiều bữa cô đau yếu, bệnh
tật trong người, gọi điện cho tụi nó mà cũng năm lần bảy lượt mới có đứa lò dò
tới. Ở xứ này vật chất có ai thiếu thốn đâu, điều cô cần là tình người kìa,
nhưng lần nào tụi nó đến cũng chỉ láo nháo một hồi rồi cáo chuyện ra về. Nghĩ
nhiều lúc tủi muốn chết!
Bà Hồng ngừng chuyện, đôi mắt chợt đỏ hoe. Bà xoay xoay tờ quyết
định nghỉ hưu trong tay như đang xoay vần định mệnh của chính mình. Một lát bà
đặt tờ giấy xuống bàn, quả quyết nói:
- Mà thôi! Đời người là vậy! Lúc khổ, lúc khó người ta mới cần nương
cậy mình để sống chứ khi có của ăn của để rồi họ đâu cần mình nữa. Người Việt
mình ở riết xứ này rồi cũng trở nên máu lạnh lúc nào không hay.
Việt định nói một câu gì đó cùng bà Hồng như một lời biện giải nhưng
cũng không tìm được lời nào thích hợp nên anh đành im lặng.
II
Việt quen bà Hồng cũng đã lâu. Vì công việc nên anh thường xuyên
phải qua lại nơi bà Hồng làm việc. Có lần bà Hồng tâm sự, cách đây gần ba chục
năm bà đã tay xách tay bồng bốn đứa cháu ruột của mình lên thuyền vượt biển.
Đứa cháu lớn của bà lúc ấy vừa tròn 8 tuổi. Bà bảo sau ngày giải phóng sống cực
quá. Cũng vì quá bức bách mà mình phải bỏ nước ra đi chứ thực tình lúc bước
chân xuống thuyền là coi như phó thác số phận cho ông trời, nào ai biết rồi
mình sẽ trôi dạt tới phương nào đâu. Vậy mà sau gần hai tuần lênh đênh sóng
nước, lương thực dự trữ trên thuyền cũng cạn kiệt, người trưởng tàu tự nhiên
ngã bệnh rồi đột tử ngay trên thuyền. Xác cậu ấy chúng tôi phải khâm liệm qua
loa rồi sau gần hai ngày thì buộc phải thả xác xuống biển. Cảnh tượng lúc ấy
hãi hùng lắm. Con thuyền của tụi tôi lúc ấy không người lái, vậy là cứ để nó tự
nhiên trôi đi đâu thì trôi cho tới lúc cạn hết nhiên liệu. Nước uống mọi người
trên thuyền cũng phải dè sẻn chia nhau từng giọt cuối cùng... Đúng vào lúc
tuyệt vọng nhất thì chúng tôi gặp một chiếc tàu buôn chạy qua. Cũng chẳng ai
còn đủ sức để mà gào lên kêu họ cứu nữa. Thật may là cậu trưởng tàu đã lo xa
nên cách đó cả tuần đã bảo tụi tôi xé những tấm mền trắng rồi cắm lên mạn
thuyền, phòng lúc lâm nạn... Thế rồi chuyện cậu ấy dự liệu cũng tới, chúng tôi
như những chiếc xác không hồn nằm lăn lóc trên thuyền. Rồi phước đức cho chúng
tôi khi ấy chiếc tàu buôn đã phát hiện ra chúng tôi từ xa, họ bảo không biết tại
sao đi tới chỗ chúng tôi thì con tàu bị trục trặc và nhất định không chịu chạy
tiếp và vì vậy họ đã quyết định ghé lại rồi cứu cả mấy chục mạng lên tàu. Khi
đã hoàn hồn chúng tôi bảo nhau có lẽ cậu trưởng tàu linh thiêng nên đã phù hộ
cho chúng tôi thoát nạn... Chiếc tàu buôn nọ đã đưa chúng tôi vào một hòn đảo
của Philipinnes... rồi hơn sáu tháng sau chính phủ Đức nhận chúng tôi qua đây
tị nạn...
III
Có thể nói đó là những năm tháng gian lao nhất của cuộc đời và ngay
cả việc bà Hồng quyết định ở vậy để đi làm kiếm tiền nuôi dưỡng đám cháu ruột
của mình ăn học cho tới ngày trưởng thành, bà Hồng cũng coi đó là niềm hạnh
phúc lớn lao nhất trong cuộc đời của mình. Mặc dù niềm hạnh phúc ấy cứ vợi dần,
điều ấy bà có thể cảm nhận được khi thấy đám cháu của mình ngày càng tuột khỏi
tầm tay, tầm nhìn của bà. Bà Hồng cũng nhiều lần tự nhủ: Con cháu khôn lớn ắt
phải trưởng thành, phải sinh cơ, lập nghiệp. Nhưng dẫu tự nhủ hay tự an ủi đến
mấy bà Hồng cũng không thể mãi tự dối lòng mình khi thấy những đứa cháu mà bà
đã đánh đổi cả sinh mạng và tương lai của chính mình để nuôi dưỡng chúng, với
bà ngày càng trở nên xa lạ tới độ nhiều khi bà không thể tưởng tượng nổi đó là
những đứa cháu mà bà đã từng che chở nơi sóng to, gió cả, từng mớm ẵm cho từng
giọt nước cuối cùng khi chúng khát lặng giữa biển khơi...
- Hôm nào cô chia tay nghỉ hưu, Việt đừng quên nhé?
Bà Hồng chợt lên tiếng cắt ngang dòng suy nghĩ của Việt nhưng thấy
anh không trả lời bà liền gõ nhẹ tay lên bàn bảo:
- Này, làm gì mà thần người như sắp phải về hưu non thế? Bữa nào cô
chia tay đừng quên tới dự nhé?
Việt cười đáp:
- Vâng! Tất nhiên rồi. Thế cô có dự tính gì sau khi nghỉ hưu chưa?
Bà Hồng lại thở dài:
- Dự tính à? Một người sắp hết "TÜV"[2] như cô còn dự tính
được điều gì nữa chứ? Ngôi nhà cô đang ở chắc sẽ phải dọn đi nơi khác.
- Sao thế cô? - Việt hỏi.
- Vì nó lớn quá. Ngày xưa cô nghĩ giữ lại ngôi nhà ấy, nơi gắn bó
mấy chục năm với đám cháu, và phòng khi vợ chồng con cái tụi nó tới thăm còn có
chỗ mà ở, nhưng lâu lắm rồi cũng chẳng có đứa nào thèm quan tâm tới bà cô này
nữa, trừ phi cô có chuyện phải nhờ vả tụi nó. Mà nếu có thì tụi nó cũng gặng
hỏi lên hỏi xuống, đôi khi còn mắng là chuyện có vậy mà cũng phải nhờ. Nghĩ
nhiều lúc đau lòng lắm, nhưng biết làm sao. Chúng nó đủ lông đủ cánh, đã ông nọ
bà kia hết cả rồi, giữ cũng chẳng được. Bà Hồng chẹp miệng - Thôi thì cô trả
quách cái nhà cũ rồi thuê căn phòng nhỏ hơn, mình cô ăn ở gì cũng xong.
Việt hỏi:
- Cô có nghĩ chuyện về Việt Nam sống không?
- Chuyện ấy cô cũng có nghĩ tới nhưng còn kẹt nhiều chuyện bên này
lắm. Chuyện quốc tịch, nhà cửa rồi tiền hưu biết giải quyết thế nào? Cô cũng có
về thăm Việt Nam vài lần, cuộc sống đã dễ thở hơn nhiều so với ngày cô còn
trong nước. Có lẽ kinh tế của mọi người đã có phần dư dả hơn. Ở Việt Nam cô
cũng còn vợ chồng đứa cháu họ, tụi nó cũng khuyên cô về hưu thì xin hồi hương
về ở hẳn với vợ chồng con cái tụi nó tại Sài Gòn rồi trông nom nhà cửa, vườn
tược và con cái giúp tụi nó. Biết là tụi nó thương cảnh mình nên khuyên thực
lòng chứ chẳng có ý lợi dụng hay nhờ vả gì vì kinh tế tụi nó cũng khá giả lắm,
nhưng mình sống tự do quen rồi, giờ về phụ thuộc người khác lại không phải
người ruột thịt, máu mủ của mình, cô cũng ngại. Vả lại cứ nghĩ tới đám cháu
ruột mà còn xử với cô như vậy - bà Hồng khẽ day sống mũi - rủi mình về hẳn, có
chuyện gì xảy ra xoay cũng chẳng kịp. Cô nghĩ chín cả rồi. Xứ này dù sao cũng
là quê hương thứ hai của mình, vả lại những ngày khốn khó nhất của đời người là
khi qua đây mình cô thân gái, tiếng tăm một chữ cắn đôi không biết, một nách
bốn đứa cháu thơ dại... vậy mà cô cũng vượt qua được. Giờ nhà cửa mình có, đành
lẽ là nhà thuê, nhưng với khoản lương hưu hàng tháng cô cũng đủ sống cho tới
cuối đời. Mà thôi, chuyện của cô buồn lắm Việt ơi. Việt cũng phải làm việc nữa.
Cô cũng vậy. Còn ít bữa nữa cô cũng muốn làm việc cho khuây khỏa chứ về hưu rồi
hết đi chợ mua sắm, cơm nước xong chỉ còn mục bó gối ngồi chầu xem ti vi hoặc
lại giống mấy bà hàng xóm đứng dựa cửa sổ ngắm xuống đường cho hết ngày.
Bà Hồng kéo ghế ngồi lại ngay ngắn bên bàn làm việc rồi bảo:
- Thôi, cô làm việc đây. Việt cũng về làm việc đi kẻo sếp nhìn thấy
lại bảo cô sắp về hưu, kiếm chuyện chây lười. Nói xong bà Hồng bắt chặt tay
Việt như một lời giao ước:
- Vậy nhé! Buổi cô chia tay đừng quên nhé?
Nhưng cái ngày ấy mãi mãi
không bao giờ đến với bà Hồng bởi bà đã qua đời ngay sau bữa đó vài tuần trong
một tai biến mạch máu não...
IV
Đám tang của bà có hai người đàn bà trẻ lồng lộn khóc than. Họ khóc:
"Ới cô ơi! Sao cô nỡ lòng vội vã ra đi không một lời trăng trối để các
cháu cô cũng không có cơ hội phụng dưỡng cô lúc đau yếu, tuổi già... hả cô
ơi...". Nghe họ ngả ngốn khóc không ít người trong đám tang lễ cũng phải
mủi lòng, khóc theo.
Những đồng nghiệp của bà Hồng thì kể lại rằng: Trước ngày mất vài
hôm, bà Hồng vào xưởng với cặp mắt mọng nước, đỏ hoe. Mọi người gặng hỏi thì bà
bật khóc, kể lại việc bà gọi điện thoại, tính nhờ đám cháu tới chở bà đi mua
sắm đồ liên hoan chia tay trước lúc nghỉ hưu. Hai đứa cháu lớn thì từ chối
thẳng vì ở quá xa. Một đứa thì viện lý do xe mới hỏng không tới được. Còn cô
cháu gái út mà bà thương yêu nhất, ở gần nơi bà sống, nghe bà gọi điện thì mắng
bà xơi xơi rằng bà đã ở Đức tới mấy chục năm mà vẫn lẩm cẩm, quê mùa một cục.
Nó đay nghiến bà rằng muốn nhờ vả nó chuyện gì cũng phải đặt hẹn trước vài ba
tuần, chứ tụi nó đâu phải kẻ ăn người ở mà hễ bà gọi phôn là tụi nó phải săn
đón, chầu chực.
Mấy người hàng xóm thân thiết của bà Hồng thì kháo nhau: Đám cháu
ruột bà Hồng chắc thương cô nên sau đám tang, trong buổi tới dọn dẹp nhà cửa
của bà cô để trả lại cho chủ nhà, họ đã khoe khoang rằng sẽ kiếm mua cho bà cô
một mảnh đất rồi về Việt Nam thuê kiến trúc sư thiết kế cho bà một “quả” lăng
giống hệt lăng Tự Đức gọi là bù đắp công ơn dưỡng dục cho bà cô ruột của
mình...
Người ta còn bảo: Bà Hồng vậy mà có phước!
Việt Hà
-----------------------
* Chú thích:
[1] Chỉ người Mỹ
[2] Tiếng lóng để chỉ người đã ở tuổi xế chiều.